Pages

Oct 25, 2011

Tình trạng thiếu việc làm - Sapa Vietnam

ở các nhóm tuổi còn lại, tỷ lệ tham gia vào lực lượng lao động của nam giới cao hơn nữ giới. Nguyên nhân chính là sau 25 tuổi nam giới đ• được học xong, ra trường và gia nhập lực lượng lao động Sapa Vietnam, thêm vào đó ở tuổi 25 trở đi thường đ• lập gia đình và nhiều người trong đó rút khỏi lực lượng lao động để thực hiện những công việc mang tính nội bộ gia đình. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động tới đỉnh cao và nhóm tuổi 25-54 ở cả 2 giới: Năm 1989 của nam là 91,71% của nữ là 82,19%; Năm 1999 của nam là 85,8% và của nữ là 84,74% ở nhóm tuổi 55-59 tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới giảm dần còn ở nữ giới do đ• hết tuổi lao động theo quy định của luật lao động do đó tỷ lệ này tụt xuống rất nhanh ở độ tuổi 60+ thì tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của cả hai giới tụt xuống rất nhanh do cả hai giới đều đ• hết tuổi lao động.
Khi xem xét tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ, người ta thường nghỉ tới mức sinh. Song đây là mối quan hệ phức tạp khó xác định mức độ ảnh hưởng lẫn nhau là bao nhiêu. Tuy nhiên chúng ta có thể khẳng định việc sinh con chính là chi phí cơ hội cho việc đi làm, do đó nếu có công việc ăn làm đầy đủ cho phụ nữ thì: thứ nhất, sẽ làm cho tuổi kết hôn của họ cao hơn, vì thế mà giảm cơ hội sinh con nhiều lần hơn. Thứ hai do tính chất của công việc và sự cuốn hút của thu nhập cao sẽ khiến người phụ nữ giảm tiểu thời gian giành cho việc sinh con để làm việc hoặc đi học nâng cao trình độ với mục đích làm việc có hiệu quả hơn. Ngược lại đối với phụ nữ đông con, họ ít có thời gian và các điều kiện khác tham gia lao động x• hội. Tuy nhiên, ở huyện Sapa Vietnam hiện nay tình trạng thiếu việc làm rất phổ biến và vếu có thì chủ yếu là làm nông nghiệp và do đó mối quan hệ nói trên rất mờ nhạt.
Khi xét đến trình độ văn hoá của lực lượng lao động huyện Sapa Vietnam ta tiến hành nghiên cứu bảng số liệu của huyện này tại hai cuộc tổng điều tra dân số năm 1989,1999.
Qua biểu 11 ta thấy: năm 1989 trong 6,71% lực lượng lao động không biết chữ thì lực lượng lao động nữ chiếm 3,78% trong năm 1999, trong 2% lực lượng lao động không biết chữ thì lực lượng lao động nữ chiếm 1,04%.

Sự phát triển kinh tế cho huyện Sapa Vietnam

Xét về lương tuyệt đối ta thấy lực lượng lao động của huyện có sự tăng lên đáng kể. Năm 1989 là 82,992 người và sau 10 năm sau năm 1999 đ• tăng lên 96,208. Đây là nguồn lực con người dồi dào cho sự phát triển kinh tế cho huyện Sapa Vietnam.
Trong điều kiện hiện nay, khi mà nền kinh tế đất nước nói chung và của huyện Sapa Vietnam nói riêng đ• có những chuỷển biến đáng kể, thì một số người đ• tạm thời hoặc lâu dài thoát ly ra khỏi bộ phận dân số  hoạt động kinh tế để học tập nghỉ ngơi, làm các công việc trong gia đình mình chính vì vậy đ• làm cho tỷ lệ tham gia lực lượng lao động chung và thô giảm đi, cụ thể là nếu năm 1989 tỷ lệ này là 75,16% thì sang đến năm 1999 tỷ lệ đó giảm xuống chỉ còn 74,29%.
Thông thường, tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới ở mọi nhóm tuổi đều cao hơn nữ giới. Bởi lẽ, trước hết những công việc của người phụ nữ trong các nước đang phát triển thường là: nội trợ, trông nom con cái, chăn nuôi, kiếm củi và thường không được xem là hoạt động kinh tế mặc dù những công việc đó đem lại rất nhiều lợi ích cho mỗi gia đình trong đó có rất nhiều có lợi ích kinh tế.
Thứ đến là vai trò truyền thống của nam giới là người bươm chải ngoài x• hội để kiếm sống chủ yếu cho gia đình, do đó nam giới thường tham gia lực lượng lao động nhiều hơn nữ giới.
Bây giờ, ta tiến hành nghiên cứu từ thực tế về lực lượng lao động theo cơ cấu tuổi và giới tính ở huyện Sapa Vietnam.
Nhìn chung tỷ lệ tham gia lực lương lao động của nam giới cao hơn so với nữ giới. Năm 1989: ASSLFPR nam = 79,87%; ASSLFR nữ là = 71,41%, năm 1999: ASSLFR nam = 75,15%; ASSLFR nữ = 72,08%. Điều này do ảnh hưởng của tính chất công việc và vai trò truyền thống của từng giới trong x• hội và gia đình. Tuy nhiên khi xem xét tham gia lực lượng lao động của mỗi giới trong từng nhóm tuổi ta nhận thấy: ở nhóm tuổi 15-25 tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nữ giới cao hơn nam giới do nữ giới gia nhập vào lực lượng lao động sớm hơn trong khi nam giới có điều kiện ưu tiên hơn cho việc học tập nâng cao trình độ ở lứa tuổi này.

Nguồn lao động ở huyện Sapa Vietnam

Qua biểu 8 ta nhận thấy số người nhập cư vào huyện Sapa Vietnam năm 1992 rất cao. Do vì trong thời kỳ này có rất nhiều cơ quan, xí nghiệp bị giải thể hoặc thu hẹp quy mô sản xuất, tinh giảm biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp làm cho nhiều người lao động làm việc ở ngoài huyện Sapa Vietnam trở về quê hương làm ăn sinh sống.
Đây là lý do cơ bản khiến cho quy mô nhập cư năm 1992 cao như vậy và chính điều này đ• ảnh hưởng đến làm cho quy mô dân số của huyện trong năm 1992 tăng lên rất mạnh.
Sự mở cửa của nền kinh tế đ• tạo điều kiện cho người lao động tăng khả năng di chuyển đi những nới có điều kiện làm ăn sinh sống thuận lợi hơn, thêm vào đó đặc điểm của nền kinh tế của huyện chủ yếu là dựa vào nông nghiệp thuần tuý với mức thu nhập rất thấp đ• khiến cho người lao động của huyện di chuyển đi nới khác với một số lượng đ• cao và xu hướng ngày càng tăng thêm.
Như vậy, sự ảnh hưởng của di dân đến biến động dân số của huyện là đáng kể và ngày càng đáng kể. Do vậy khi xem xét đến tỷ lệ gia tăng dân số ta thấy tỷ lệ này ngày càng thấp đi, song đây không hẳn là do những nổ lực của huyện trong việc làm giảm mức sinh mà cần thiết phải tìm hiểu và đánh giá chính xác tình trạng di dân nhằm điều khiển một cách hợp lý tình trạng này.

IV. thực trạng về lao động ở huyện Sapa Vietnam trong những năm vừa qua.
1. Đặc điểm và xu hướng biến động nguồn lao động ở huyện Sapa Vietnam.
Như chúng ta đ• biết, quy mô dân số về cơ bản quyết định quy mô nguồn lao động  quy mô dân số  càng lớn tốc độ dân số  càng tăng cao thì quy mô và tốc độ phát triển  nguồn lao động càng lớn và ngược lại, hay nói cách khác là xu hướng biến động của nguồn lao động về cơ bản là cùng chiều với xu hướng biến động của dân số nhưng chậm hơn một thời gian bằng giới hạn dưới của tuổi lao động (ở nước ta là 15 năm).
Qua biểu ta nhận thấy, dân số  của huyện về quy mô là tăng qua 10 năm làm cho nguồn lao động ngày càng phình to ra, trong khi đó diện tích đất ở và đất canh tác/người ngày càng giảm. Điều này chứng tỏ việc tăng quy mô dân số cũng như quy mô nguồn lao động riêng và nhân dân trong huyện nói chung.

Trình độ dân trí Sapa Vietnam

2.3.1. Các thuộc về kinh tế - x• hội :
Là tổng thể các yếu tố ảnh hưởng đến khả năng thoả m•n nhu cầu vật chất, phương cách để thoả m•n chúng, chăm sóc, bảo vệ, khả năng loại trừ các tác động xấu đến sức khoẻ con người.
a. Giáo dục ảnh hưởng đến mức chết.
Trình độ dân trí Sapa Vietnam mà đặc biệt là trình độ giáo dục của các bà mẹ là nhân tố quan trọng quyết định mức chết của trẻ sơ sinh, việc nuôi dưỡng, chăm sóc tốt, đảm bảo yêu cầu về dinh dưỡng, vệ sinh, tránh được những bệnh tật do môi trường bởi lẽ các bà mẹ có học hiểu rõ nhu cầu về dinh dưỡng và yêu cầu vệ sinh cho con mình đồng thời có khả năng sử dụng có hiệu quả các biện pháp tránh thai, tránh đẻ. Cũng giống như trình độ giáo dục của các bà mẹ, trình độ học vấn của mọi người noí chung là yếu tố quan trọng để cho họ có những biện pháp khác nhau để tăng cường sức khoẻ, phòng tránh bệnh tật, ngăn ngừa các bệnh các tác động xấu từ môi trường.
b. Y tế tác động đến mức chết: Nếu như giáo dục tác động đến ý thức của con người trong việc làm tăng xác suất sống thì ytế đóng vai trò là phương tiện để con người thực hiện sự hiểu biết của mình về việc làm tăng xác suất sống. Tuy nhiên y tế và giáo dục cũng như các tác động khác có tính độc lập tương đối. Sự tiến bộ của ngành ytế ngày nay đ• chưa được nhiều loại bệnh gây tử vong ở mức cao trong quá khứ như lao, sốt rét, uốn ván, tim mạch …
2.3.2. Các yếu tố thuộc về sinh học.
Các yếu tố này có liên quan đến việc hình thành bào thai, chưa đẻ, tuổi của người mẹ khi sinh, khoảng cách giữa các lần sinh, khả năng thích nghi của cơ thể với môi trường sống.
Thông qua việc nghiên cứu những yếu tố cơ bản và tác động đến mức chết.
Để thực hiện mục tiêu giảm mức chết, tăng tuổi thọ và nâng cao sức khoẻ của mọi người. Huyện Sapa Vietnam cần làm tốt hơn công tác giáo dục dưới mọi hình thức phát triển  các dịch vụ ytế, hạn chế nạn tảo hôn vốn đang phổ biến và các tệ nạn x• hội  khác.
2.4. Di dân ảnh hưởng đến sự biến động dân số trong thời gian ở huyện Sapa Vietnam.
Di dân là một trong 3 yếu tố ảnh hưởng đến sự biến động dân số  một cách trực tiếp. Sự di dời của một bộ phận dân số làm cho dân số giảm đi và ngược lại số dân đến huyện sinh sống làm cho dân số của huyện tăng lên.
Để thấy rõ tình hình di dân ở huyện Sapa VietnamLập Thạch ta nghiên cứu bảng  số liệu số 8

Khảo thực tế tại huyện Sapa Vietnam

2.2.3. ảnh hưởng của việc thiếu việc làm đến giảm mức sinh ở huyện Sapa Vietnam.
Qua khảo thực tế tại huyện Sapa Vietnam tôi nhận thấy tình trạng thiếu việc làm ở huyện là khá phổ biến và có dấu hiệu góp phần làm giảm mức sinh của huyện trong những năm gần đây.
Trong khi quỹ đất canh tác thì có giới hạn thậm chí ngày càng bị thu hẹp thì một quy mô dân số  ngày càng phình to làm cho diện tích đất canh tác/người ngày càng giảm. Vì vậy đ• gây ra hiện tượng thiếu việc làm ở một nơi mà cơ cấu kinh tế rất chậm thay đổi và chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Chính vì lý do thiếu việc làm mà khiến cho nhiều người lao động phải di dời theo thời vụ ra khỏi phạm vi huyện để làm ăn sinh sống đ• góp phần vào việc giảm mức sinh của huyện vì một bộ phận lớn trong số người này chưa lập gia đình do họ kết hôn muộn hơn. Bên cạnh đó, cũng chính sự di dời này người lao động có điều kiện để hiểu biết về x• hội  hơn, thấu hiểu hoàn cảnh cá nhân dó đó họ chấp nhận một quy mô gia đình nhỏ để có một cuộc sống đầy đủ hơn cả về vật chất lẫn tinh thần. Thêm vào đó họ vô tình trở thành một tuyên truyền viên dân số tích cực và tạo ra một làn sóng tâm lý mới cho những người xung quanh.
2.3. Thực trạng mức chết ở huyện Sapa Vietnam trong một số năm qua .
Đây là một nhân tố góp phần làm biến đổi quy mô dân số. Trong lịch sử về dân số, nhiều nhà nghiên cứu cho rằng việc giảm nhanh tỷ lệ chết sẽ làm dân số tăng nhanh không kém gì tăng mức sinh.
Để thấy rõ sự tác động của mức chết đến sự biến động quy mô dân số  của huyện Lập Thạch, ta tiến hành nghiên cứu bảng số liệu 7 (Trang bên)
Nếu năm 1992 CGD là 6,83‰ thì sang đến năm 1993 chỉ số đó giảm được 0,06‰ đây là một sự giảm không đáng kể từ năm 1993 đến năm 1994 thì tỷ lệ này giảm đi khá cao 2,36‰ song sang đến năm 1995 tỷ suất đó lại đột ngột tăng lên 0,55%. Như vậy sau 4 năm tỷ suất này mới chỉ giảm được 0,89‰, từ năm 1995 đến năm 2000 thì tỷ suất này có xu hướng giảm dần song cũng rất chậm. Xét về cả quá trình từ năm 1992 - 2000, tỷ suất này giảm tương đối chậm qua biểu 10, ta thấy IMR cũng thấy nó cũng góp vào một phần nhỏ đến việc giảm mức chết, tuy nhiên chỉ tiêu này qua thời gian nghiên cứu có nhiều biến động và giảm rất chậm chạp. Để thực hiện được mục tiêu giảm mức chết nói chung và mức chết ở trẻ sơ sinh nói riêng ta cần tìm hiểu nguyên nhân làm biến đông mức chết .

Công tác thông tin - Sapa Vietnam

b. ảnh hưởng của công tác thông tin - Giáo dục - Truyền thông đến việc giảm mức sinh ở huyện Sapa Vietnam.
Thông tin - Giáo dục - Truyền thông (TGT) dân số là một trong 3 chương trình quốc gia về DS - KHHGĐ. TGT nhằm mục đích tuyên truyền sâu rộng trong mọi tầng lớp về mục đích, ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác DS - KHHGĐ, thúc đẩy các thành viên trong cộng đồng cùng chấp nhận quy mô gia đình ít con thông qua việc cung cấp đầy đủ các thông tin về DS - KHHGĐ và sự phát triển đồng thời hướng dẫn các biện pháp sử dụng các dụng cụ tránh thai.
Hiệu quả của công tác này được thể hiện rõ nét thông qua chỉ tiêu tổng tỷ suất sinh: nếu như năm 1993 TFR = 3,44 con/P nữ thì năm 1998 TFG = 2,17 con/P nữ. Để có được điều này trước hết cần phải thừa nhận sự đóng góp to lớn của công tác TGT.
Truyền thông gián tiếp được thực hiện thông qua sách báo, tranh ảnh, băng hình…còn truyền thông trực tiếp theo nhóm nhỏ tại gia đình hoặc trực tiếp theo nhóm nhỏ tại gia đình hoặc từng cặp vợ chồng trẻ được các công tác viên dân số tư vấn về việc áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại và giúp họ nhận thức được lợi ích của việc sinh ít con và chấp nhận quy mô gia đình nhỏ, giúp họ từng bước xoá đi những quan niệm phong kiến cổ.
2.2.2. Tình hình sử dụng các biện pháp thai đến giảm mức sinh ở huyện Sapa Vietnam
Sử dụng các biện pháp tránh thai là yếu tố quyết định trực tiếp đến hành vi sinh đẻ của người dân.

Ta thấy tình hình sử dụng biện pháp tránh thai ở huyện có sự biến động qua các năm. Nhìn chung số ngưới bắt đầu sử dụng BPTT biến động rất thất thường trong giai đoạn 1992 - 1995 và có xu hướng giảm dần trong giai đoạn 1995-2000. Riêng hai biện pháp sử dụng dụng cụ tử cung (DCTC) và đình sản nam có xu hướng giảm đi rõ rệt nhất vì:
+ Người sử dụng các biện pháp này những năm trước thì nay vẫn còn tác dụng.
+ Tuổi kết hôn ngày càng được tăng cao (kết hôn muộn) đồng nghĩa với việc sinh con muộn và sinh ít con hơn do vậy đ• làm giảm số người sử dụng BPTT.

Giảm mức sinh ở huyện Sapa Vietnam


a. Bộ máy tổ chức công tác DS - KHHGĐ ở huyện Sapa Vietnam.
Có thể nói đây là nhân tố ảnh hưởng đến việc làm giảm mức sinh ở huyện Sapa Vietnam bởi lẽ trước năm 1992 UBDS - KHHGĐ chưa được thành lập, vì vậy công tác theo dõi tình hình phát triển  dân số  của huyện chưa có sự kết nối giữa các ngành, các cấp trong huyện do đó trước đây mức sinh trong huyện còn rất cao.
Nhưng từ khi UBDS - KHHGĐ của huyện được thành lập vào năm 1992 và đặc biệt là sau khi có nghị quyết 04NQ/HNTW ra ngày 14/1/1993 của Hội nghị lần IV BCHTW Đảng khoá VII về chính sách dân số  kế hoạch hoá gia  đình thì vấn đề dân số của huyện đ• được giao cho một số chức vụ cụ thể có trách nhiệm theo dõi và điều chỉnh tình hình phát triển  dân số  của cả huyện.
Trong 8 năm (1992 - 2000) cùng với các phong trào về dân số  trong cả nước, công tác BDS - KHHGĐ ở Sapa Vietnam đã đạt được một số thành công nhất định. Đó là sự chuyển biến nhận thức của các cấp Đảng uỷ, chính quyền và nhân dân các dân tộc về vấn đề dân số được thể hiện rõ nét trên các mặt hoạt động từ năm 1992 tới nay. Chính sự chuyển biến về nhận thức ấy đ• tạo điều kiện thuận lợi để công tác DS - KHHGĐ bước đầu được:
- Hoàn thiện hệ thống công tác tổ chức làm công tác DS - KHHGĐ  từ  huyện đến x• đi vào hoạt động có nề nếp, ăn khớp nhịp nhàng giữa các cấp, các ngành trong huyện. Đến năm 2000, số cán bộ chuyên trách cấp huyện có 5 người, 40 cán bộ chuyên trách cấp x• (mỗi x• một cán bộ) và 411 công tác viên ở các nông thôn.
- Kể từ khi bộ máy tổ chức làm công tác truyền thông DS - KHHGĐ được kiện toàn, mức sinh ở huyện đ• giảm đi rõ rệt, cụ thể là: nếu như tỷ suất sinh thô năm 1992 là 30% thì đến năm 2000 chỉ số này chỉ còn lại 16,3%. Như thế sau 8 năm tỷ suất sinh thô đ• giảm được 13,7%, tỷ lệ sinh con thứ 3 trong khoảng thời gian này giảm xuống 37,78% xuống còn 22,14% tức là đ• giảm được 15,64%.
Tóm lại, việc hoàn thiện và kiện toàn bộ máy tổ chức làm công tác DS - KHHGĐ ở huyện đ• đem lại việc giảm mức sinh đáng kể. Điều này có thể khẳng định rằng mức sinh ở huyện ngày càng giảm xuống là do có sự quan tâm đúng mức của các cấp l•nh đạo, sự hoạt động có hiệu quả với tinh thần trách nhiệm cao của cả bộ máy làm công tác DS - HHGĐ ở huyện Sapa Vietnam.